Hồi – Cây thảo dược đặc biệt từ miền núi phương Bắc

Cây hồi, một loại cây nhỏ cao khoảng từ 2 đến 6 mét, có hình dáng thon như quả trám và luôn màu xanh tươi suốt cả năm. Thân cây hồi thẳng và dễ gãy, lá mọc thành chùm 3-4 lá ở đầu cành với phiến lá dài khoảng 8-12cm, rộng 3-4cm, có mùi thơm dịu nhẹ. Hoa hồi mọc đơn độc ở kẽ lá và có cánh hoa màu trắng phía ngoài và hồng thắm ở mặt trong. Quả hồi (nhiều người gọi nhầm là hoa hồi) có hình dạng như một ngôi sao với 6-8 hoặc thậm chí 12-13 cánh. Quả đường kính trung bình là 2,5-3cm, dày 6-10mm, khi tươi có màu xanh, khi chín khô trở thành màu nâu hồng. Tất cả lá, cuống, hoa và quả của cây hồi đều chứa tinh dầu.

Cây hồi chỉ mọc trong một khu vực nhỏ chiếm khoảng 5.000km2 ở tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, cùng một số ít ở hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông, giáp biên giới Việt Nam. Tuy nhiên, cây hồi cũng được trồng ở một số nơi khác như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, và Thái Nguyên. Trước đây, người ta thường nhầm cây hồi với cây hồi Nhật Bản (Illicium anisatum Lour) có chất độc, hoặc cây hồi núi cũng có chất độc.

Cứ hai vụ mỗi năm vào tháng 7-8 và 11-12, người ta hái quả hồi để phơi khô. Quả hồi có thể được sử dụng để chiết xuất tinh dầu hoặc dùng nguyên quả trong y học. Mỗi cây hồi mỗi năm cho khoảng 80-100kg quả tươi và cây có thể cho quả suốt trong khoảng 40-50 năm. Trên thị trường, hồi thường được chia thành ba loại: loại 1 có 8 cánh đều và màu nâu đỏ (hồi đại hồng), loại 2 có từ 1 cánh trở lên bị lép và màu nâu đen, loại 3 có từ 3 cánh trở lên bị lép và màu nâu đen. Có cả loại hồi xô được trộn lẫn cả ba loại trên.

Quả hồi chứa tinh dầu từ 3-3,5% (tươi) hoặc 9-10% (khô) bao gồm các chất nhầy, đường và chủ yếu là tinh dầu. Tinh dầu hồi là một chất lỏng không màu hoặc vàng nhạt, tỷ trọng từ 0,980 đến 0,990 ở +15°C, và đông đặc từ 14-18°C. Chất lỏng này chứa 80-90% anethol và phần còn lại là tecpen, pinen, dipenten, limonen, estragola, safrola, tecpineola và nhiều chất khác.

Tham khảo  Bèo cái: Thảo thuỷ sinh nổi với nhiều công dụng bất ngờ

Lá hồi cũng chứa tinh dầu có thành phần tương tự như quả hồi, nhưng có độ đông đặc thấp hơn (13-14°C). Khi trộn cả tinh dầu lá và tinh dầu quả lại, ta thu được một tinh dầu có độ đông đặc vào khoảng 10°C.

Hồi có hương vị cay, mùi thơm đặc trưng, và có tính ấm vào bốn cơ quan cơ bản trong cơ thể, đó là thận, tỳ, vị và kinh can. Hồi có tác dụng trừ hàn, khai vị, kiện tỳ, chống nôn, chỉ thống, trừ phong và sát trùng.

Hồi được sử dụng trong cả y học đông y và tây y. Trong y học tây y, hồi được sử dụng làm thuốc trung tiện (carminative), giúp tiêu hoá và kích thích sự lưu thông sữa. Hồi cũng có tác dụng làm giảm đau và co bóp trên hệ thống thần kinh và cơ. Do đó, nó được sử dụng để điều trị đau dạ dày, đau ruột và trong những trường hợp ấu trùng dạ dày và ruột quá mạnh. Ngoài ra, hồi còn được sử dụng làm gia vị trong nấu ăn, làm rượu khai vị và làm thơm thuốc đánh răng. Tuy nhiên, nếu sử dụng quá lượng hoặc với liều cao, hồi có thể gây ra ngộ độc, gồm các triệu chứng như say, run chân tay, và tăng mạnh áp lực máu trong não và phổi, thậm chí có thể gây co giật như động kinh.

Theo các tài liệu cổ đại, hồi có vị cay, tính ôn và có tác dụng trên bốn cơ quan cơ bản của cơ thể, đó là thận, tỳ, vị và kinh can. Nó có tác dụng trừ hàn, kiện tỳ, khai vị và được sử dụng để chữa nôn mửa, đau bụng, chướng tức bụng và giải độc cơ thể sau khi ăn thịt cá. Tuy nhiên, người tán hư hoặc có sức khỏe yếu không nên sử dụng hồi.

Hiện nay, hồi được sử dụng như một loại thuốc giúp tiêu hoá, hỗ trợ quá trình ăn uống, giảm cảm giác nôn mửa và giảm đau nhức cơ thể. Mỗi ngày, có thể dùng 4 đến 8g hồi dưới dạng thuốc sắc. Hồi cũng có thể được sử dụng ngoài da để xoa bóp và giảm đau nhức cơ thể. Ngoài ra, hồi cũng được sử dụng làm gia vị trong nấu ăn, như là thành phần chính của húng lìu khi nấu thịt bò và các loại thịt khác. Một số loại thuốc khác cũng có tên gọi “hồi”.

Tham khảo  Hoa Sen Cạn - Tropaeolum majus L

Bài thuốc có hồi:

  1. Chữa trúng phong, bại liệt một bên mình: Hồi 12g, quế chi 20g, đinh hương, rau sam, dây bìm bìm, cây nghệ, lá cây dâu gió, xương bồ, huyết giác đều 12g. Tán nhỏ trộn với một bát rượu và một bát nước tiểu dùng để xoa bóp.
  2. Chữa phong thấp: Hồi, hồ tiêu, phèn chua, đều bằng nhau. Giã nhỏ, xoa bóp vào chỗ đau.
  3. Chữa đau tức ngực, toát mồ hôi lạnh: Hồi, ô dược, thanh bì, riềng, các vị đều nhau. Sao (trừ hồi và ô dược), giã nhỏ, uống với rượu đun nóng và đồng tiện.
  4. Chữa đau lưng: Hồi (bỏ hạt) tẩm với nước muối sao, giã nhỏ. Mỗi lần uống 6-10g với rượu. Ngoài ra có thể dùng lá ngải cứu trườn nóng để xoa bóp lưng.
  5. Chữa đau rang: Hồi, phèn chua, sáp ong, cà gai leo, lượng bằng nhau, cùng với một ít muối. Sắc lấy nước để ngâm.
  6. Chữa bong gân, đau khớp: Cao dán gồm tinh dầu hồi, quế, menthol, camphor, ngải cứu, cúc tần.

Mục nhập này đã được đăng trong Đông y. Đánh dấu trang permalink.