Lấu đỏ – Cây thuốc quý với nhiều công dụng

Lấu đỏ, hay còn được biết đến với tên gọi khác như lấu bà, bầu giác, bồ giác, men sứa, cây chạo hay lá tản, là một loại cây nhỏ cao khoảng 2-3m thuộc họ cà phê. Được tìm thấy tự nhiên, cây lấu đỏ không chỉ là một loài cây quý mà còn được sử dụng như là một loại thuốc quý theo kinh nghiệm dân gian.

Rễ – “Vị thuốc bình dân thanh nhiệt giải độc”

Rễ của cây lấu đỏ thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa thu. Sau khi thu hái, rễ cần được rửa sạch, phơi hoặc sấy khô. Khi sử dụng, rễ có thể được thái thành miếng mỏng và để sống hoặc sao qua. Dược liệu từ rễ lấu đỏ có vị đắng, tính mát, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong trừ thấp và sinh cơ.

Chữa kiết lỵ: Dùng 10g rễ lấu đỏ, sắc với 200ml nước cho đến khi còn 50ml nước. Uống một lần trong ngày và sử dụng trong 3-5 ngày.

Chữa vết thương chảy máu: Rễ lấu đỏ phối hợp với rễ sâm đại hành và vỏ cây me (liều lượng bằng nhau), sau đó phơi khô, tán nhỏ và rây thành bột mịn. Rắc bột này lên vết thương hàng ngày.

Thân – “Hỗ trợ điều trị bệnh băng huyết, bạch đới và đái ra máu”

Thân lấu đỏ sau khi tuốt bỏ lá, cần được chặt ngắn và phơi khô. Sau đó, lấy vỏ riêng ra. Khi sử dụng, lấy thân lấu đỏ phối hợp với thân cây vú bò, lá ba chẽ, thân cây bùng bục và rễ hoặc cành chua ngút, lượng mỗi loại 10g, thái nhỏ và sắc với 400ml nước cho đến khi còn 100ml. Uống hai lần trong ngày để chữa bệnh băng huyết, bạch đới, khí hư và đái ra máu.

Tham khảo  Cây Cọ Dầu - Vương miện thần kỳ của thiên nhiên

Vỏ thân lấu đỏ cùng với vỏ cây vải, mỗi loại 30g, sau đó phơi khô, thái nhỏ và sắc để uống. Đây là phương pháp chữa đau bụng và kiết lỵ ở phụ nữ sau khi sinh.

Lá – “Thứ thuốc tiêu độc, cầm máu và thu sáp”

Chỉ sử dụng lá bánh tẻ của cây lấu đỏ tươi hoặc phơi và sấy khô. Dược liệu từ lá có vị đắng chát, tính bình, không độc và có tác dụng thu sáp, chỉ tả, tiêu độc và cầm máu.

Chữa băng huyết và bạch đới: Dùng 20g lá lấu đỏ tươi, 16g lá tiết dê và 16g lá huyết dụ, giã nát, thêm nước và uống.

Chữa tiêu chảy (do lạnh bụng): Dùng 20g lá lấu đỏ, 30g lá củ nâu hoặc lá sim, sau đó sắc và uống.

Chữa tiểu ra máu: Dùng 16g lá lấu đỏ, 12g rễ cây ráng, 12g lá huyết dụ, 10g lá tiết dê và 4g ngũ bội tử. Tất cả nguyên liệu cần được dùng tươi, rửa sạch, giã nát và thêm nước để uống. Sử dụng một lần trong ngày.

Chữa sốt rét: Dùng 40g lá lấu đỏ, 40g lá na, 30g vỏ cây gòn và 20g lá thường sơn. Tất cả nguyên liệu cần được thái nhỏ, phơi khô, rang vàng, hạ thổ. Sắc uống hai lần trong ngày.

Chữa đau răng và sâu răng: Dùng vỏ lá lấu đỏ 50g, sắc đặc và lấy nước ngậm.

Sử dụng ngoài – “Chữa vết thương và nhiễm khuẩn”

Dùng 50g lá lấu đỏ, một nửa để tươi nấu nước rửa và nửa còn lại phơi khô, tán thành bột mịn để chữa chàm, mẩn ngứa và mụn lở chảy nước. Để chữa vết thương và ngăn nhiễm khuẩn, lấy 50g lá lấu đỏ, rửa sạch, thái nhỏ và nấu với nước cho đặc. Lọc bỏ bã, sau đó thêm nước đun sôi để nguội và để từ đó thu được một lít dung dịch. Sau đó, hòa 20g phèn phi vào và đánh tan. Sử dụng dung dịch này để rửa vết thương nhiều lần trong ngày.

Tham khảo  Lá kỷ tử - Siêu phẩm quý bổ gan và ngon miệng cho mâm cơm đầy đặn

Đăng bởi Đỗ Huy Bích

Hãy truy cập www.lrc-hueuni.edu.vn để tìm hiểu thêm về các loại cây thuốc và các sản phẩm y tế tại Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu – Trường Đại học Huế.

Mục nhập này đã được đăng trong Đông y. Đánh dấu trang permalink.