Rau Bao: Thảo Dược Giúp Làm Mát và Lợi Tiểu

Rau Bao là một loại cây thảo sống hai năm với chiều cao khoảng 1m. Thân của cây mọc thẳng và có những nếp nhăn đặc trưng. Lá của cây mọc rời rạc, có hình dạng hình mác thuôn, gốc lá to ôm quanh thân cây, mặt lá có răng không đều. Những lá gần gốc và ở thân cây có 2 tai ngắn, mép lá hình tam giác nhọn, trong khi đó, lá gần ngọn nhỏ hơn. Cụm hoa của cây nảy mọc ở đỉnh thân và được bao quanh bởi những chiếc lá bắc dạng dài nhọn, có lông cứng. Hoa của cây rất nhiều, tràng hoa có lưỡi ngắn hơn ống hoa 2 – 4 lần, nhị hoa có 5 nhánh, bầu hoa có tác nhân ở gốc và mào hoa mềm mại và trắng. Quả của cây có dạng dẹt, thuôn ở hai đầu và dài khoảng 3,5mm, có 5 cạnh.

Rau Bao là một loại cây rất phổ biến trên thế giới, bao gồm các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Ấn Độ. Ở Việt Nam, Rau Bao mọc rải rác ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng như ở một số tỉnh ở đồng bằng và trung du như Hà Tây (cũ), Ninh Bình, Thanh Hoá, Vĩnh Phúc… Ngoài ra, Rau Bao cũng được trồng trong vườn gia đình để sử dụng làm rau ăn ở một số tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng.

Rau Bao là một loại cây thảo sống một năm, thích ẩm và ánh sáng hoặc có thể chịu bóng nhẹ. Thường mọc rải rác trên đất ẩm ở quanh làng, ven đường hay trên nương rẫy. Cây mọc tự nhiên từ hạt vào mùa xuân và mùa hè là thời gian sinh trưởng phát triển nhanh nhất. Khi đến tháng 10, sau khi quả già, toàn bộ cây tàn lụi.

Rau Bao có thể được sử dụng toàn bộ cây. Theo nghiên cứu của Qu Guirong và đồng nghiệp năm 1996, Rau Bao chứa -3-O-α-L-rhamnosid và kaempferol-3,7-α-L-dirhamnosid. Nghiên cứu khác của Qu Guirong năm 1995 cũng chỉ ra rằng Rau Bao chứa acacetin, kaempferol chrysoeriol, luteolin và isorhamnetin. Ngoài ra, Rau Bao còn chứa nhiều thành phần hoá học khác như mannitol, quercetin, isoramnetin, chrysocniol, isoramnetin-3-β-D-glucosid, quercetin 7β-D-glucopyranosid và các chất 1,2-dilinolenyl-3-O-β-D-galactopyranosyl-on-glycerol, 1,2-dilinoleny-3-(αD-galactopyranosyl-(1→6)-O-β-D-galactopyranosyl-on-glycerol, 1-linolyl-3-O-β-D-galactopyranosyl-on-glycerol. Hoa của cây cũng được tách riêng để lấy flavonoid, sonchosid. Lá của cây chứa luteolin-7-glucosid và linarin.

Tham khảo  Tìm hiểu về Sài hồ: Công dụng và các bài thuốc chữa bệnh

Rau Bao có tác dụng lợi tiểu. Nước sắc Rau Bao được cho chuột cống trắng uống, đã chứng minh có khả năng tăng lượng nước tiểu so với nhóm không dùng nước sắc.

Rau Bao có vị đắng và tính hàn. Toàn cây Rau Bao có tác dụng làm mát, giải độc, thanh nhiệt, lợi tiểu và thông sữa. Đồng bào dân tộc ở miền núi thường trồng Rau Bao để sử dụng trong nấu ăn để giải nhiệt và lợi tiểu. Phụ nữ đang cho con bú cũng có thể uống nước sắc Rau Bao để tăng lượng sữa. Ngoài ra, Rau Bao còn được sử dụng để điều trị kiết lỵ, lòi dom, ăn không tiêu, viêm họng và viêm loét giác mạc. Liều dùng hàng ngày là 80-100g Rau Bao tươi hoặc 40-50g Rau Bao khô sắc uống.

Tại Trung Quốc, Rau Bao cũng được sử dụng để điều trị viêm ruột, viêm ruột thừa, bệnh lỵ, trĩ, sản hậu ứ huyết và đau bụng. Liều dùng hàng ngày là 9-15g Rau Bao sắc uống.

Với những tác dụng đặc biệt và tiềm năng trong việc chăm sóc sức khỏe, Rau Bao là một phương pháp tự nhiên hữu ích mà bạn có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.

Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập www.lrc-hueuni.edu.vn

Mục nhập này đã được đăng trong Đông y. Đánh dấu trang permalink.