Dây Gắm – Tận dụng tối đa cây thảo quý trên rừng

Dây Gắm là một loại cây mọc hoang có nhiều lợi ích không ngờ. Với thân cây có sợi dai, chúng thường được sử dụng trong việc làm chạc, bện thừng, đan túi, đan lưới và cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt. Lá cây cũng có thể được sử dụng như rau ăn, hạt rang lên có thể ăn, ép lấy dầu hoặc ủ men để chế thành rượu. Dịch từ cây cũng có thể được sử dụng làm nước giải khát. Bên cạnh đó, tất cả các bộ phận của cây đều có thể được sử dụng để chữa bệnh. Tuy nhiên, tiềm năng của loài cây quý này vẫn chưa được khai thác triệt để.

Dây Gắm, còn được biết đến với tên khoa học là Gnetum montanum Markgr, thuộc họ Dây Gắm (Gnetaceae). Loài cây này còn có các tên đồng nghĩa khác như Gnetum scandens Roxb, Gnetum edule Kurz và Gnetum latifolium Parl.

Ở Việt Nam, cây Dây Gắm còn có tên gọi khác như Dây sót, Dây mấu, Dây gấm lót, Vương tôn, Gắm núi, Gấm, Bằn thắn muối (Thái), Muối (Tày), K’lọt (K’ho), Viàng múi nhây (Dao).

Theo các sách thảo dược Trung Quốc (TQ), cây này có tên là “Mãi mãi đằng” (Mãi = Mua, Ma = Cây đay, Đằng = Dây leo; cây được gọi như vậy vì nó là loại dây leo mà người ta mua về để sử dụng làm dây buộc hoặc lấy sợi đan lưới, giống như dây đay). Tại Trung Quốc, cây còn có nhiều tên gọi khác như Mãi tử đằng, Bác cốt đằng, Đại tiết đằng, Ô cốt phong, Ma cốt phong, Hắc đằng, Hạc tất phong, Trúc tiết đằng, Tiếp cốt đằng…

Theo một số tài liệu như “Quảng Đông Thực vật chí”, “Tân hoa bản thảo cương yếu” và tạp chí “Thực vật di truyền từ nguồn học báo” (Journal of Plant Genetic Resources) năm 2011, Dây Gắm là loài cây mọc leo duy nhất trong các loại thực vật hạt trần. Nó nằm ở vị trí trung gian trong hệ thống phân loại thực vật và có những đặc trưng của cả thực vật hạt trần và thực vật hạt kín. Do đó, loài cây này có giá trị đặc biệt trong nghiên cứu lý thuyết cũng như ứng dụng.

Tham khảo  Dầu cám gạo - Bí quyết cho làn da mềm mịn và chậm lão hóa

Họ Dây Gắm trên thế giới chỉ có duy nhất một chi – Gnetum, với khoảng 40 loài và phân bố ở các khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới trên châu Á, châu Phi và Nam Mỹ. Trung tâm phân bố của chúng là khu vực từ Nam châu Á, qua bán đảo Malaysia, tới quần đảo Philippin. Ở Trung Quốc, đã được phát hiện và lấy được tiêu bản của 9 loài. Do phân bố rộng và dễ chịu ảnh hưởng của môi trường, Dây Gắm có khá nhiều biến dạng về hình thái. Chưa có sự điều tra hệ thống nên có khả năng tồn tại những loài Gắm mới mà chúng ta vẫn chưa biết.

Theo sách “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, chi Gắm – Gnetum L. thường là những cây bụi, dây leo và ít khi là cây hóa gỗ. Chúng phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Á, một số loài còn ở châu Phi và Nam Mỹ. Ở Việt Nam, có khoảng 5-6 loài Gắm, và chúng phổ biến ở các tỉnh miền núi.

Dây Gắm thường mọc trong những khu rừng kín thường xanh và ẩm. Những cây lớn có thể dài tới 20m, lá tập trung ở các cành nhỏ. Chúng có hoa và quả hàng năm, một cây lớn có thể cho tới 10kg quả (thực ra đó là hạt bởi Gắm thuộc nhóm hạt trần – Gymnospermae). Cây có khả năng tái sinh từ hạt tốt và thích ẩm và bóng khi còn nhỏ.

Dược liệu từ cây Gắm ở Việt Nam rất phong phú. Trước năm 1990, ngành y tế thường khai thác thu mua Gắm, nhưng hiện nay khai thác ít hơn. Cây Gắm cũng là mục tiêu bị khai thác và chặt bỏ trong quá trình tu bổ và khai thác rừng. Tuy nhiên, phần gốc còn lại của cây có khả năng tái sinh chồi khỏe.

Tác dụng chữa bệnh

Y học cổ truyền

Theo cuốn “Bách gia trên tàng” của Hải Thượng Lãn Ông, rễ Gắm, còn được gọi là “Vương tôn”, có vị đắng, tính bình. Rễ này được sử dụng để chữa chứng tê đau do hàn thấp và có thể ích khí, bổ hư tổn.

Tham khảo  Sâm Nhung Quế Phụ - Lời nguyền của sức khỏe nam giới

Theo cuốn “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS Đỗ Tất Lợi, người ta thường sử dụng sắc uống từ Dây Gắm để giải các chất độc như ngộ độc thức ăn, sơn ăn. Nó cũng được dùng để chữa sốt và sốt rét. Liều dùng là 15-20g hoặc 30g dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu.

Theo cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” của TS Võ Văn Chi, Dây Gắm (Vương tôn) có vị đắng, tính bình và có tác dụng khu phong, trừ thấp, thư cân hoạt huyết, giải độc, tiêu viêm, sát trùng.

Công dụng của Dây Gắm bao gồm:

  • Hạt có thể ăn.
  • Rễ và thân cây thường được sử dụng làm thuốc giảm đau, chữa phong tê thấp, sản hậu mòn và giải độc (ngộ độc thức ăn, sơn ăn da, rắn cắn). Chúng cũng được sử dụng trong việc chữa sốt và sốt rét.
  • Rễ Gắm còn được dùng trong việc chữa kinh nguyệt không đều.
  • Lá Gắm được dùng để chữa rắn cắn.

Liều dùng của cây Gắm là 15-20g và có thể lên tới 30g dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Để chữa thấp khớp, người ta thường phối hợp với các vị thuốc khác ngâm rượu uống.

Theo cuốn “Thường dùng trung thảo dược thủ sách”, Dây Gắm có vị khổ và tính ôn. Nó có công năng chủ trị khư phong trừ thấp, hoạt huyết tán ứ, trị đòn ngã tổn thương và phong thấp đau xương.

Theo cuốn “Lục Xuyên bản thảo”, cành lá của Dây Gắm được sử dụng để liền gân xương, trị đòn ngã tổn thương và gãy xương bong gân.

Theo cuốn “Quảng Tây dược thực danh lục”, cành lá của cây có tác dụng giúp liền xương, tiêu thũng, giảm đau (chỉ thống). Rễ cây có tác dụng chữa hạc tất phong (đầu gối sưng đau).

Một số kết quả nghiên cứu hiện đại

Về thành phần hoá học

Theo sách “Trung Hoa bản thảo”, từ lá nhỏ của cây Dây Gắm đã phân lập được các chất Gnetifolin A, B, C, D, E, F; isorhapontigenin; resveratrol; Bsitosterol; dl-demethyl coclaurin hydrochlorid; 2-hy-droxy-3-methoxy-4-methoxycarbonypyrrol; 2-hydroxy-3-methoxymethyl-4-methoxycarbony-lpyrrol; 3,4′-dihydroxy-4-methoxydibenzylether; 3,3′,4′-trihydroxy-4 methoxydibenzylether; 3diphenylpyrrole; N,N-dimethylethano-lamin.

Tham khảo  Cây chó đẻ răng cưa - Những bí mật chưa được tiết lộ!

Một số tác dụng dược lý

  1. Nước sắc của Dây Gắm có tác dụng ức chế vi khuẩn nhóm A (Group A Streptococci), vi khuẩn gây viêm phổi Catarrhal (neisseria catarrhal pneumonia), liên cầu khuẩn tan máu (Haemophilus haemolyticus), tụ cầu khuẩn vàng (Staphylococcus aureus), trực khuẩn thương hàn (Salmonella typhosa), trực khuẩn lý (Shigella flexneri).

  2. Chất dl-demethyl Coclaurin hydrochlorit chiết xuất từ Dây Gắm có tác dụng làm mạnh tim.

  3. Chất chiết xuất từ Dây Gắm khi tiêm vào chuột thí nghiệm với liều 0,1mg/kg thể trọng có tác dụng chống co thắt phế quản.

  4. Nước sắc Dây Gắm có tác dụng chống khó thở và giảm ho nhẹ.

Đây chỉ là một số kết quả nghiên cứu hiện đại về cây Dây Gắm, cho thấy khả năng chữa bệnh của loại cây này. Cây Gắm không chỉ có giá trị lý thú trong nghiên cứu mà còn rất hữu ích trong việc chữa bệnh. Đây là một cây thảo quý mọc hoang trong rừng và đang thường bị chặt bỏ, nhưng chúng ta nên tận dụng tối đa tài nguyên này để bảo vệ và phát triển nền y học dân tộc.

Mục nhập này đã được đăng trong Đông y. Đánh dấu trang permalink.